Thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

Thứ Sáu, 24/06/2022 08:05 AM (GMT+7)

Căn cứ huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết đồng bộ những vấn đề dân số với kinh tế, xã hội và môi trường.

Pháp lệnh Dân số năm 2003 (tại Khoản 3 Điều 5. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác dân số và Khoản 5 Điều 30. Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) đã đề cập đến trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức là thực hiện và chỉ đạo tổ chức “Lồng ghép các yếu tố dân số vào trong quy hoạch, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế-xã hội”.

Tuy nhiên, việc lồng ghép các yếu tố dân số trong hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội chưa được chú trọng đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng lãng phí trong đầu tư phát triển.

6.1

Dưới đây là một số thí dụ trong lĩnh vực giáo dục:

Do mức sinh giảm, số người trong độ tuổi đi học phổ thông (từ 5-19 tuổi) giảm cả về quy mô và tỷ trọng trong dân số. Cụ thể số dân trong độ tuổi đi học phổ thông (từ 5-19 tuổi) giảm từ 26.508 nghìn người năm 1999 xuống 24.650 nghìn người năm 2009 và 22.059 nghìn người vào năm 2019; tương ứng, tỷ lệ dân số trong độ tuổi học sinh phổ thông trong tổng dân số giảm từ 39,33% năm 1999 xuống 34,73% năm 2009 chỉ còn 22,93%  năm 2019.

Việc tăng tỷ lệ nhập học, có nhiều nguyên nhân nhưng về dân số, xét trên phạm vi toàn quốc, áp lực dân số lên hệ thống giáo dục phổ thông quốc gia đã giảm. Vì thế, từ năm học 2002-2003, số học sinh phổ thông (từ 6-17 tuổi) đã bắt đầu giảm: Năm 1999, cả nước 17.391 nghìn học sinh, tăng “đỉnh điểm” vào năm 2001 lên tới 17.876 nghìn, giảm xuống 17.587 năm 2009, chỉ còn 17.500 nghìn vào năm 2019.

Tương tự, các chỉ tiêu “Số lớp/1 trường”, “Số học sinh/1 trường”, “Số học sinh/1 lớp học” cũng giảm hẳn. Kết quả này tạo tiền đề thuận lợi cho việc đạt mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo Luật giáo dục.Tuy nhiên, “Tỷ số học sinh/giáo viên” giảm sâu chưa phù hợp với trình độ phát triển và việc đào tạo dư thừa giáo viên phổ thông cũng gây nhiều hệ lụy khác. Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có thời điểm, cả nước đang dư thừa khoảng 35.000 giáo viên bậc THCS và THPT,trong khi đó lại “thiếu 27.554 giáo viên mầm non đứng lớp[1].

Tại cấp tỉnh, Hà Nội, năm học 2013-2014 số học sinh vào lớp 1 là 125.000 cháu, tăng 11.000 cháu so với năm 2012. Vĩnh phúc, trường tiểu học Tam đảo có 57 học sinh (trong đó tiểu học có 34, trung học cơ sở có 23). Lớp nhiều nhất cũng chỉ có 12 em (lớp 1). Lớp 4 chỉ có 4 học sinh. Hiện tại trường đang khuyết lớp 7 vì không có học sinh học 9 (khảo sát của Bộ Kế hoạch vàĐầu tư)

Điều 18 Luật Quy hoạch (2017) yêu cầu các quy hoạch phải “Đánh giá môi trường chiến lược trong lập quy hoạch” nhưng lại chưa yêu cầu đánh giá tác động của dân số, mặc dù cùng với tài nguyên, môi trường, dân số là nhân tố tác động mạnh đến sự phát triển của quốc gia.

Trong các cuộc khảo sát năm 2015 và 2018 tại 12 tỉnh, trả lời câu hỏi: Ông/Bà có biết một kế hoạch nào bị tổn thất do không chú ý đến vấn đề dân số không? Gần 32% cán bộ quản lý trả lời: “Có biết một số kế hoạch như vậy”; và hơn 20% trả lời “Có biết một kế hoạch như vậy”. Chính vì thế , 98,5% cán bộ quản lýcán bộ quản lý cho rằng “cần thiết” hoặc “rất cần thiết” đánh giá tác động của dân số khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội.

Rõ ràng, để có chính sách, kế hoạch phát triển, nhất là kế hoạch dài hạn phù hợp, hiệu quả, việc lồng ghép các yếu tố dân số vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội là yêu cầu khách quan.

Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, quan điểm về công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh bền vững. Một trong những giải pháp Nghị quyết đưa ra là “Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước, của từng ngành, từng địa phương”.

Để thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết 21-NQ/TW, Bộ Y tế đề xuất 06 chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Dân số, gồm: (1) Duy trì mức sinh thay thế; (2) Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh và đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; (3) Phá thai an toàn; (4) Tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh; (5) Tư vấn, khám sức khoẻ trước khi kết hôn; (6) Lồng ghép các yếu tố dân số trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện mục tiêu bảo đảm mối quan hệ tác động qua lại giữa các vấn đề dân số với phát triển kinh tế - xã hội, cần phải quy định thực hiện việc lồng ghép các yếu tố dân số (quy mô, cơ cấu) trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương. Tuy nhiên hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật về việc lồng ghép này. Luật Dân số quy định chính sách “Lồng ghép các yếu tố dân số trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” để giải quyết các vấn đề nêu trên.

Mục tiêu, nội dung chính sách, giải pháp thực hiện chính sách “Lồng ghép các yếu tố dân số trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” trong đề nghị xây dựng Luật Dân số như sau:

a) Mục tiêu của chính sách

Tạo cơ sở pháp lý để lồng ghép các yếu tố dân số trong xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội[2].

b) Nội dung chính sách

Quy định nội dung cơ bản để thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong xây dựng, thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội.

c) Giải pháp thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do lựa chọn

- Giải pháp thực hiện chính sách:

Quy định nguyên tắc, đối tượng, quy trình,trách nhiệm thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số; nội dung các yếu tố dân số lồng ghép; thông tin số liệu dân số phục vụ lồng ghép; theo dõi, đánh giá, báo cáo kết quả thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương.

- Lý do lựa chọn giải pháp:

Thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết 21-NQ/TW; tạo cơ sở pháp lý để thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương; làm căn cứ huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết đồng bộ những vấn đề dân số với kinh tế, xã hộivà môi trường trên từng địa phương cũng như trên phạm vi quốc gia.

Tuy nhiên, để thực hiện giải pháp này, các cơ quan quản lý nhà nước được giao trách nhiệm cần chuẩn bị các điều kiện bảo đảm, trình tự thực hiện việc lồng ghép, như: cung cấp số liệu đầy đủ, tin cậy và dự báo dân số chính xác phục vụ việc lồng ghép; nâng cao năng lực thực hiện lồng ghép cho các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương...

[1]Thông tin cập nhật tại Hội nghị Tổng kết năm học 2012 - 2013 và Hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2013 - 2014 do Bộ GD-ĐT tổ chức trực tuyến với 63 tỉnh thành diễn ra sáng 22/8/2013.

[2]Thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết 21-NQ/TW.

Lưu Trung Kiên

Thanh Huyền

Cùng chuyên mục

Lồng ghép các yếu tố dân số vào kế hoạch phát triển là yêu cầu khách quan

Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số...

Thực hiện phá thai an toàn, giảm tác động gây tổn hại đến tinh thần, sức khỏe, tính mạng của người được phá thai

Phá thai không an toàn, phá thai trái phép gây tổn hại đến tinh thần, sức khỏe, thậm chí đến tính mạng của...

Cần sự vào cuộc quyết liệt của toàn xã hội, chung tay giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh

Nhiều năm qua, Việt Nam đang phải đối mặt với một vấn đề - lựa chọn giới tính thai nhi. Lựa chọn giới tính...

Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh và đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên

Từ năm 2006 đến nay, SRB của Việt Nam bắt đầu có xu hướng tăng đáng kể và hiện chưa có dấu hiệu dừng lại....