Những rào cản trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Thứ Năm, 24/08/2023 09:50 AM (GMT+7)

Tăng cường tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng sâu vùng xa cần có sự phối hợp các cấp các ngành để cải thiện chỉ số tử vong mẹ và con, chỉ số suy dinh dưỡng thấp còi...

Theo GS.TS.BS Bùi Thị Thu Hà, Đại học Y tế Công cộng, mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sự chênh lệch và bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo dân tộc và khu vực còn rất lớn. Tỷ số tử vong mẹ toàn quốc của Việt Nam đã giảm từ 68/100.000 trẻ đẻ sống năm 2000 xuống còn 43/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2017.

Tuy nhiên, tỉ số tử vong mẹ ở các nhóm dân tộc thiểu số còn cao ở mức 100-150/100.000 trẻ đẻ sống. Tỷ số tử vong mẹ ở người dân tộc Thái và Hmong cao gấp 4 – 5 lần so với nhóm dân tộc Kinh. Bảy trong số mười tỉnh có tỷ số tử vong mẹ cao nhất giai đoạn 2016 – 2018 đều là các tỉnh miền núi phía Bắc.

co-do-thon-ban-giam-tu-vong-me-16693671921261282850701-35-0-660-1000-crop-1669367359648551901236

Trên toàn quốc, 95% số bà mẹ được chăm sóc trước sinh và sinh con có người đỡ đẻ đã được thông qua đào tạo. Tuy vậy, tỷ lệ đẻ tại nhà của một số nhóm dân tộc còn cao và có sự chênh lệch nhiều giữa các nhóm dân tộc, dao động từ 20% - 90% (ví dụ trong nhóm người H'Mông: 77,4%; Xơ Đăng: 68%; Thái: 57,3%; Ba Na: 56,5%; Gia Rai:52,3%).

Nghiên cứu khác tại 60 xã khó khăn nhất ở khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên năm 2017 cho thấy nhóm dân tộc ít người (DTIN) và người sống tại vùng sâu vùng xa có tỷ lệ sử dụng dịch vụ CSSKBM thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ chung của cả nước. Ví dụ như dịch vụ khám thai ít nhất bốn lần (16% so với 74%), sinh con có sự hỗ trợ của người đỡ đẻ được đào tạo (SBA) (49% so với 94%).

Nghiên cứu năm 2021 tại một số tỉnh miền núi cho thấy khoảng 34% phụ nữ dân tộc ít người được khám thai ít nhất 4 lần, dao động từ 8,3% trong nhóm người H'Mông đến 80,2% trong nhóm người Chăm ở An Giang.

Nguyên nhân của tình trạng này do văn hóa và giá trị kinh tế - xã hội của kết hôn sớm, sự kết hợp giữa yếu tố dân tộc và các đặc điểm kinh tế – xã hội khác như sống tại khu vực khó tiếp cận, trình độ học vấn thấp, tỷ lệ nghèo cao, tỷ lệ thất nghiệp lớn, mức sinh cao, tôn giáo, sống xa cơ sở y tế.

Ở vùng miền núi, dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em chưa đảm bảo được tính sẵn có, khả năng chi trả, khả năng tiếp cận và tính chấp nhận đối với nhóm người dân tộc ít người. Các khu vực miền núi là địa bàn sinh sống chủ yếu của người dân tộc ít người còn thiếu nhiều nhân viên y tế và cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cơ bản. Điều này ảnh hưởng đến tính sẵn có và hiệu quả cung cấp dịch vụ. Ví dụ tại Điện Biên, chỉ có 24% trạm y tế có bác sĩ, 76% trạm y tế có nước sạch.

Khoảng 1/4 người dân tộc ít người khi sử dụng dịch vụ y tế phải đi vay mượn tiền, bán vật dụng trong nhà hoặc ngưng sử dụng vì thiếu tiền chi trả. Khoảng cách từ nhà tới cơ sở y tế cũng được nhiều báo cáo đề cập đến là rào cản trong tiếp cận sử dụng dịch vụ bà mẹ tại khu vực miền núi.

Ví dụ trung bình người Hoa, Kinh mất 21 phút thì người dân tộc ít người mất 36 phút để tới bệnh viện huyện gần nhất Ngoài ra, dịch vụ CSSKBM cũng chưa phù hợp với phong tục tập quán, văn hóa địa phương, chưa đáp ứng được yêu cầu theo giới tính, cũng như nhu cầu cụ thể của người dân. Thông tin mà phụ nữ dân tộc ít người nhận được (qua lời nói hay chữ viết) đều chung chung, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với hoàn cảnh của người sử dụng dịch vụ.

Về điều kiện đi lại, khoảng cách và thời gian từ thôn xa nhất tới trạm y tế (TYT) trung bình lần lượt là 20,5km với hơn 60 phút di chuyển. Trong đó có tới 16 xã có thời gian đi từ thôn xa nhất tới TYT hơn 90 phút (5 xã người dân vẫn phải đi bộ từ thôn xa nhất tới TYT), 11 xã có thời gian di chuyển là 60 phút.

Có tới 27 xã (45%) số xã có thời gian đi lại từ thôn xa nhất tới TYT ≥60 phút. Đây là khó khăn lớn của người dân tại các thôn bản này trong tiếp cận dịch vụ y tế. Tương tự như vậy, kết quả cũng cho thấy khoảng cách trung bình tới bệnh viện gần nhất của 60 xã nghiên cứu là 37,3 km với thời gian trung bình là 77,1 phút bằng xe máy. Kết quả cũng cho thấy 35 xã có thời gian đi từ TYT xã tới bệnh viện huyện cần ≥60 phút. Kết quả này phản ánh khó khăn nói chung của người dân tại 60 xã trong việc tiếp cận tới các dịch vụ y tế, đặc biệt là cấp cứu sản khoa khi cần.

Do vậy, để cải thiện các chỉ số chênh lệch sức khỏe bà mẹ và trẻ em giữa các vùng miền và dân tộc, cần tăng cường tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng sâu vùng xa cần có sự phối hợp các cấp các ngành. Chính phủ đã đầu tư nhiều hạng mục giao thông để khắc phục điều kiện về khoảng cách, cơ sở vật chất, trang thiết bị mạng lưới y tế cũng được đầu tư bài bản… Hy vọng các chỉ số tử vong mẹ và con, chỉ số suy dinh dưỡng thấp còi… sẽ được cải thiện trong thời gian tới.

Vũ Phương Dung

Cùng chuyên mục

Vĩnh Phúc tổ chức Hội nghị cung cấp kiến thức về bệnh Thalassemia cho cán bộ Y tế, dân số các cấp năm 2024

Sáng ngày 17/4, Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng và Cung ứng...

Hội thảo khoa học “Già hóa dân số ở Việt Nam - Thực trạng, xu hướng và khuyến nghị chính sách”

Sáng 10/4, tại thành phố Ninh Bình, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Trung ương Hội Người cao tuổi Việt...

Ra quân điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024

Nhằm thu thập thông tin về dân số, nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, lễ ra...