Sa sinh dục ở nữ giới: nguyên nhân và cách điều trị

Thứ Sáu, 27/10/2023 10:51 PM (GMT+7)

Sa sinh dục là một bệnh khá phổ biến ở phụ nữ Việt nam, nhất là phụ nữ ở nông thôn, trong lứa tuổi từ 40 - 50 trở lên chiếm khoảng 5 - 8%. Đây là bệnh không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng lại ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt, lao động của phụ nữ.

Sa sinh dục là gì?

Sa sinh dục xảy ra khi cơ sàn chậu và dây chằng căng ra và suy yếu, không thể giữ được tử cung. Do đó sa tử cung có thể gây tình trạng tử cung sa xuống, thập thò vùng âm đạo. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp không những chỉ sa tử cung, mà còn sa cả thành trước âm đạo kèm theo có sa bàng quang và sa cả thành sau âm đạo kèm theo trực tràng. Sa sinh dục là một bệnh lý có tỉ lệ cao hơn ở vùng nông thôn, bệnh thường gặp ở những người chửa đẻ nhiều, đẻ quá sớm, quá dày và những lần đẻ trước không được đỡ đẻ an toàn, đúng kỹ thuật.

Sa sinh dục được chia thành 3 mức độ theo vị trí sa của cổ tử cung, để từ đó có chỉ định phẫu thuật phù hợp. Cụ thể:

- Sa sinh dục độ I: Cổ tử cung sa thấp trong âm đạo nhưng chưa tới âm hộ.

- Sa sinh dục độ II: Cổ tử cung sa thập thò âm hộ.

- Sa sinh dục độ III: Tử cung, cổ tử cung sa thấp, cổ tử cung sa hẳn ra ngoài âm hộ.

Nguyên nhân gây ra sa sinh dục

Có nhiều nguyên nhân gây ra sa sinh dục bao gồm:

- Chửa đẻ nhiều lần, đẻ dày, đẻ tại nhà.

- Đẻ không được đỡ đẻ an toàn đúng kỹ thuật tại cơ sở y tế không có đủ trình độ, chuyên mônRách tầng sinh môn không được khâu.

- Lao động nặng, lao động sớm sau đẻ làm tăng áp lực vào đáy chậu còn mềm yếu dễ gây nên sa sinh dục.

- Các nguyên nhân gây tăng áp lực ổ bụng khác như nghề nghiệp phải gánh gồng nặng, táo bón trường diễn, ho kéo dài,...

- Ngoài ra có thể do cơ địa bẩm sinh ở người chưa đẻ lần nào.

20191205_091431_888520_sa-sinh-duc.max-1800x1800

Biểu hiện sa sinh dục

Tùy theo từng người, tùy mức độ sa sinh dục ít hay nhiều, mới sa hay sa từ lâu, sa đơn thuần hay còn có tổn thương phối hợp, có kèm theo sa bàng quang hay trực tràng mà xuất hiện những dấu hiệu thường gặp sau đây: Khó chịu, cảm giác tức nặng vùng cửa mình, ở bụng dưới, nhất là khi đứng, nhưng khi nằm thì cảm giác khó chịu đó lại không còn. Đôi khi có cảm giác như muốn rặn đẻ vì các tĩnh mạch ở vùng đáy chậu bị sa sung huyết, đồng thời do áp lực trong thành bụng dồn xuống vùng đáy chậu đã bị suy yếu, hay bị đau vùng thắt lưng.

Khối sa lồi ở vùng âm hộ, tầng sinh môn, ban đầu kích thước khối sa nhỏ, không thường xuyên xuất hiện, chỉ xuất hiện khi lao động nặng hoặc đi lại nhiều, nằm nghỉ thì khối sa tụt vào trong âm đạo hoặc tự đẩy lên được, càng về sau khối sa càng to, sa thường xuyên và không tự đẩy lên được nữa. Khi đó sẽ xuất hiện triệu chứng tức nặng bụng dưới, cảm giác vướng víu khó chịu vùng âm hộ-tầng sinh môn ảnh hưởng đến lao động và sinh hoạt hàng ngày.

Nếu kèm theo sa bàng quang thì có dấu hiệu đi tiểu khó, tiểu rắt, són tiểu khi cười to, khi ho mạnh hay khi bị rùng mình, thường đái không hết nước tiểu nên bàng quang dễ bị viêm gây ra tiểu buốt. Trong trường hợp sa bàng quang nhiều thì lúc đầu đi tiểu rất khó khăn, phải dùng ngón tay đẩy bàng quang lên trên và vào trong mới đi tiểu được. Đôi khi bệnh nhân phải đến viện vì bí tiểu cấp.

Nếu kèm theo sa trực tràng thì đại tiện sẽ có cảm giác vẫn chưa hết phân ở trực tràng, có thể bị táo bón. Nhiều người bị sa sinh dục nhưng kinh nguyệt vẫn bình thường và vẫn có khả năng có thai. Nhưng những phụ nữ này thường dễ sẩy thai và đẻ non. Chảy máu, khí hư ra nhiều do cổ tử cung viêm nhiễm, cọ xát khiến người bệnh đi lại khó khăn, hạn chế lao động,...

Biến chứng sa sinh dục

Nói chung, sa sinh dục tiến triển chậm. Theo thời gian, nếu không được xử trí thì ngày càng sa nhiều hơn, mức độ sa nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào tuổi tác và mức độ lao động nặng hay nhẹ.Các biến chứng do sa sinh dục gây nên gồm:

+ Viêm loét, chảy máu cổ tử cung kéo dài (do bị cọ sát), làm cho việc vệ sinh chăm sóc hàng ngày rất bất tiện.

+ Thành âm đạo sa dễ bị viêm, khô, rát, có thể xuất huyết do bị cọ sát; người bệnh đau đớn khó chịu, mất dần khả năng sinh hoạt tình dục.

+ Tử cung – phần phụ dễ bị viêm ngược dòng do viêm cổ tử cung.

+ Bàng quang và niệu đạo bị sa (theo thành trước âm đạo) gây rối loạn tiểu tiện, bí đái, lâu ngày dẫn đến viêm bàng quang, sỏi bàng quang, xuất huyết bàng quang, rò bàng quang - âm đạo, thận ứ niệu.

+ Khi thành sau âm đạo sa nhiều sẽ kéo theo sa trực tràng gây rối loạn đại tiện (ỉa khó, mót rặn, són phân…).

Điều trị sa sinh dục

Điều trị nội khoa

* Chỉ định: Với sa sinh dục độ I, Sa độ II, III nhưng bệnh nhân quá già, hoặc có bệnh toàn thân chống chỉ định phẫu thuật, hoặc bệnh nhân quá trẻ.

* Cách điều trị: 

 + Cho đeo dụng cụ đỡ tử cung bằng chất dẻo (pessarium).

 +Dùng Estrogen tác dụng đơn thuần ở âm đạo.

 +Thể dục liệu pháp.

 + Ngâm tầng sinh môn và khối sa sinh dục hàng ngày trong các dung dịch sát trùng, nước chè xanh, nước sắc lá trầu không có tác dụng làm săn se niêm mạc âm đạo, chống viêm.

 +Điều trị các biến chứng nếu có.

Điều trị ngoại khoa: Phẫu thuật là phương pháp chủ yếu trong điều trị sa sinh dục.

* Chỉ định: Sa sinh dục độ II và độ III, nghĩa là những trường hợp sa sinh dục có triệu chứng cơ năng mới cần phẫu thuật.

* Trước phẫu thuật cần đánh giá đầy đủ các yếu tố sau:

- Tuổi, thể trạng và các bệnh lý toàn thân: Bệnh nhân sa sinh dục thường cao tuổi nên thể trạng thường không tốt, có thể quá béo, quá gầy; có thể có các bệnh toàn thân như thiếu máu, bệnh tim mạch, hô hấp, huyết áp cao, tiểu đường…Đôi khi các yếu tố này sẽ là yếu tố chống chỉ định mổ hoặc cần điều trị trước khi mổ. Không nên mổ cho những bệnh nhân quá trẻ hoặc quá già, trừ khi sa quá nhiều và thể trạng cho phép.

- Mức độ sa sinh dục.

- Ảnh hưởng của sa sinh dục đến các cơ quan lân cận: tình trạng sa bàng quang, sa trực tràng; rối loạn tiểu tiện, đại tiện?.

- Tình trạng âm đạo, cổ tử cung bình thường hay viêm nhiễm. Nếu có viêm cổ tử cung, âm đạo cần đặt thuốc và vệ sinh hàng ngày trước mổ.

- Tử cung, hai phần phụ có u cục không?

- Bụng có vết mổ cũ không? tiên lượng mức độ dính vùng tiểu khung?

- Bệnh nhân còn nhu cầu sinh đẻ không? còn quan hệ tình dục không?

- Điều kiện trang bị của cơ sở y tế và trình độ phẫu thuật viên.

Phòng ngừa sa sinh dục

- Không nên đẻ sớm quá, đẻ nhiều quá, đẻ dày quá. Phải đẻ ở nơi có điều kiện đỡ đẻ an toàn, đỡ đẻ đúng kỹ thuật.

- Không nên để chuyển dạ quá dài, không để rặn đẻ quá lâu.

- Các thủ thuật sản khoa phải làm đúng chỉ định, đúng kỹ thuật và đủ điều kiện tránh gây sang chấn cho âm đạo và tầng sinh môn.

- Nếu rách tầng sinh môn, dù nhỏ cũng phải khâu lại.

- Sau đẻ không nên lao động quá sớm và quá nặng.

- Cần phát hiện và điều trị sớm các bệnh mãn tính gây tăng áp lực ổ bụng thường xuyên (táo bón trường diễn, ho kéo dài…) là nguyên nhân dẫn đến sa sinh dục.

Lưu Phương Linh

Cùng chuyên mục

Nam giới trước khi kết hôn nên làm những xét nghiệm nào?

Siêu âm tinh hoàn, tinh dịch đồ, bệnh lây truyền qua đường tình dục, kiểm tra nhóm máu, chức năng gan, thận…...

Tải về

Phóng sự: Quan tâm chăm sóc SKSS VTN/TN:Vì một thế hệ chủ động, tự tin phát triển bản thân và xây dựng đất nước

Lứa tuổi vị thành niên, thanh niên là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang người lớn. Đây là giai đoạn...

Phóng sự: Vai trò của chính sách hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn trong giải quyết vấn đề mức sinh thấp

Nhờ thành công của chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế với 2,1 con/...

Một số lưu ý khi sử dụng thuốc tránh thai khẩn cấp

Nhiều phụ nữ tìm đến các biện pháp tránh thai khẩn cấp để giúp tránh thai sau khi quan hệ tình dục không an toàn....