Tình trạng lười sinh con ở người Nhật

Thứ Ba, 13/12/2022 03:49 PM (GMT+7)

Hiện nay, xã hội Nhật Bản đang phải đối diện với thực trạng ngày càng nhiều người Nhật "lười sinh con", với rất nhiều nguyên nhân đến từ các yếu tố kinh tế, xã hội.

Theo số liệu năm 2021, Nhật Bản là đất nước có dân số già nhất thế giới, với 29% số người trên 65 tuổi. Trong khi đó, tỉ lệ sinh của phụ nữ Nhật là 1,34 trẻ em/người, chỉ hơn một nửa so với tỉ lệ sinh toàn cầu là 2,45/người năm 2020. Theo số liệu năm 2021, Nhật Bản là đất nước có dân số già nhất thế giới, với 29% số người trên 65 tuổi. Trong khi đó, tỉ lệ sinh của phụ nữ Nhật là 1,34 trẻ em/người, chỉ hơn một nửa so với tỉ lệ sinh toàn cầu là 2,45/người năm 2020.

Nhìn lại lịch sử, Nhật Bản đã trải qua 2 lần bùng nổ dân số. Lần đầu tiên vào cuối những năm 1940, khi Thế chiến II kết thúc và các gia đình trẻ được đoàn tụ. Lần thứ hai diễn ra vào khoảng 20-30 năm sau đó - cuối những năm 1960 và 1970, thời kỳ kinh tế phát triển rực rỡ và khi những đứa trẻ sinh ra từ lần bùng nổ trước đó đã trưởng thành. Tuy nhiên, lần bùng nổ dân số tiếp theo - đáng ra phải diễn ra theo chu kỳ vào những năm 1990-2000 đã không bao giờ xảy ra. Theo số liệu năm 2021, Nhật Bản là đất nước có dân số già nhất thế giới, với 29% số người trên 65 tuổi. Trong khi đó, tỉ lệ sinh của phụ nữ Nhật là 1,34 trẻ em/người, chỉ hơn một nửa so với tỉ lệ sinh toàn cầu là 2,45/người năm 2020.

Có vài nguyên do chính dẫn đến việc này.

1. Người trẻ "chán" kết hôn

Trong 30 năm sau lần bùng nổ dân số thứ hai, nhiều thay đổi đã diễn ra với cách nhìn nhận về hôn nhân của người Nhật. Dữ liệu chỉ ra dù những năm cuối thập niên 60, đầu 70 là thời kỳ bùng nổ dân số thứ 2 khi tỉ lệ sinh gia tăng nhờ thúc đẩy của nền kinh tế và nhóm dân số trẻ, đây cũng là giai đoạn đánh dấu chuyển dịch mạnh mẽ từ hôn nhân sắp đặt sang hôn nhân tự do. Tuy nhiên, vào những năm 1960, lần đầu tiên tỷ lệ các cuộc hôn nhân vì tình yêu tăng cao hơn con số do hôn nhân sắp xếp. Kể từ đó, phần lớn những người độc thân đã nghe theo con tim của họ trong việc tìm kiếm một người bạn đời. Các cuộc khảo sát của Viện Quốc gia về Dân số và Nghiên cứu An sinh Xã hội Nhật chỉ ra rằng 69% các cặp kết hôn thông qua mai mối vào năm 1930 - nhưng con số này đã giảm xuống còn 5,2% vào năm 2015.

Đồng thời với đó là sự thay đổi về định kiến xã hội khi Nhật Bản ngày càng hiện đại hóa và các giá trị toàn cầu bắt đầu du nhập vào đất nước. Trước những năm 60, việc kết hôn trước một lứa tuổi nhất định gần như là bắt buộc ở Nhật và định kiến với người sống độc thân là rất cao. Nhưng từ khi nhận thức xã hội thay đổi và hôn nhân sắp đặt mất ưu thế, số người kết hôn bắt đầu giảm mạnh. Theo báo cáo về giới năm 2022 của Văn phòng Nội các Nhật, 25,4% phụ nữ ở độ tuổi 30 và 26,5% nam giới trong cùng độ tuổi nói rằng họ không muốn kết hôn. Tương tự, hơn 19% nam giới ở độ tuổi 20 và 14% nữ giới không có kế hoạch kết hôn. Báo cáo chỉ ra rằng 514.000 cuộc hôn nhân đã được đăng ký ở Nhật Bản vào năm 2021, đánh dấu con số hàng năm thấp nhất kể từ khi Thế chiến II kết thúc vào năm 1945 và giảm mạnh so với 1,029 triệu đám cưới vào năm 1970.

Những phụ nữ tham gia cuộc khảo sát cho biết họ ngại kết hôn vì họ thích tự do, có sự nghiệp viên mãn và không muốn gánh nặng của người nội trợ truyền thống như việc nhà, nuôi dạy con cái và chăm sóc cha mẹ già. Nam giới cho biết họ cũng được hưởng các quyền tự do cá nhân, nhưng nhiều người cũng cho biết thêm, những động lực khác khiến việc sống độc thân bao gồm lo ngại về việc không đảm bảo công việc và không thể kiếm đủ tiền để nuôi sống một gia đình.

Trong một nền văn hóa coi trọng nam giới là trụ cột gia đình, điều này có tác động nghiêm trọng đến hôn nhân và sinh đẻ. Đàn ông không có việc làm thường xuyên không được coi là bạn đời lý tưởng. Theo khảo sát, những người có công việc không ổn định tại Nhật thường kiếm được khoảng 1.800 USD/tháng nhưng đa phần số tiền này sẽ bị chi cho tiền thuê nhà, trả tiền nợ đại học hay chi phí an sinh xã hội - vốn sẽ ngày càng tăng cao vì dân số già và giảm lực lượng lao động. Còn những người may mắn hơn, có công việc ổn định và thu nhập tốt thì lại gần như không còn thời gian hẹn hò, gặp gỡ hay xây dựng gia đình bởi văn hóa làm việc thêm giờ đến mức tiêu cực tại Nhật.

2. Những khó khăn của việc có con

Từ đầu những năm 1990, sau khi bong bóng kinh tế vỡ tại Nhật Bản, dư âm của nó vẫn còn đến tận ngày nay. Suy thoái kinh tế kéo dài khiến đàn ông Nhật thường phải làm trung bình 9.5-10 giờ/ngày, còn phụ nữ vốn chỉ làm công việc nội trợ trong bối cảnh truyền thống, giờ phải kiếm việc làm thêm để đủ chi phí trang trải cuộc sống gia đình. Trong quá khứ, tại Nhật cũng phổ biến hình thức "tam đại đồng đường" khi cha mẹ, con cái và ông bà cùng chung sống, giúp giảm gánh nặng chi tiêu như thuê nhà, sinh hoạt... và đỡ đần trong việc nuôi dạy con cháu. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, nhất là ở các đô thị lớn, ngày càng ít các cặp đôi lựa chọn sống chung cùng cha mẹ sau khi kết hôn, tạo ra áp lực lớn hơn về tài chính và việc nhà.

Trong thời kỳ cao điểm của đại dịch COVID, một chương trình trên đài NHK tập trung vào chủ đề "Đưa trẻ đi siêu thị có phiền toái không?" và đáng ngạc nhiên là nhiều người nghĩ rằng câu trả lời là có. NHK kết thúc cuộc thảo luận này bằng cách giới thiệu một danh sách các cách cư xử mà cha mẹ nên tuân theo khi họ đi mua sắm với con cái của họ. Theo blogger kansai-odyssey là một cặp vợ chồng đang sinh sống tại Nhật, việc trẻ em quấy khóc ở nơi công cộng là "nỗi kinh hoàng" tại đây. Họ so sánh, khi ở Mỹ, hầu hết mọi người sẽ không quan tâm hoặc cố gắng dỗ dành. "Tuy nhiên, ở Nhật Bản, sự căng thẳng âm thầm ẩn hiện và những cái nhìn liếc ngang, tạo ra không khí bất thành văn gây khó chịu".

Một khó khăn khác, phải kể đến nhận thức đối với trẻ em sinh ngoài hôn nhân, càng làm gia tăng tính liên hệ giữa việc suy giảm hôn nhân và tỉ lệ sinh của nước này. Nghiên cứu của quỹ Nippon công bố năm 2021 cho thấy sự chênh lệch lớn về quan điểm cá nhân về việc sinh con ngoài giá thú. Tại Nhật Bản, 67% phụ nữ được khảo sát cho biết họ coi hôn nhân là điều kiện tiên quyết để có con so với chỉ 14% phản đối, tỷ lệ thấp nhất đối với bất kỳ quốc gia nào. Phần lớn những người được hỏi ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Hoa Kỳ cũng thích kết hôn trước khi có con. Ngược lại, hơn 80% phụ nữ ở Đan Mạch, Pháp, Ý và Thụy Điển không coi tình trạng hôn nhân là yếu tố quyết định trong việc lựa chọn sinh con. Tới năm 2013, Tòa án Tối cao Nhật Bản mới công nhận quyền thừa kế ngang bằng của trẻ em sinh ngoài hôn thú so với trẻ em sinh ra bởi cha mẹ đã kết hôn. Nhưng ngay cả khi đó, xã hội Nhật Bản vẫn có cái nhìn rất ít đón nhận đối với nhóm trẻ này, thể hiện qua con số thực tế về số trẻ sinh ngoài giá thú ở nước này so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.

3.3

3. Rủi ro đối với phụ nữ

Theo Jeff Kingston, giáo sư tại Đại học Temple, Nhật Bản, tình trạng ly hôn đã tăng vọt ở Nhật Bản khi phụ nữ trở nên ít chịu đựng sự lừa dối, lạm dụng và việc chồng yêu cầu họ lùi lại. Tỷ lệ ly hôn ở Nhật Bản tăng 66% từ năm 1980 đến năm 2012. Ngược lại, ở Hoa Kỳ, tỷ lệ ly hôn giảm từ năm 1980 đến năm 2012. Có khoảng 1,8 vụ ly hôn trên 1.000 người ở Nhật Bản, so với 3,2 vụ ly hôn trên 1.000 người ở Mỹ. Tỷ lệ nghèo của các gia đình đơn thân có bố hoặc mẹ đang làm việc là 56% tại Nhật, đây cũng là tỷ lệ cao nhất trong OECD (Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế). Tỷ lệ nghèo của các gia đình cha mẹ đơn thân đang làm việc tương tự ở Hoa Kỳ, để so sánh, là 33,5%.

Số lượng các bà mẹ đơn thân ở Nhật Bản đang tăng lên và đất nước này sẽ cần phải có những thay đổi lớn để giúp các bà mẹ đơn thân. Số hộ gia đình bao gồm một bà mẹ đơn thân đã tăng 72% từ năm 1983 đến năm 2011 khi tình trạng ly hôn trở nên phổ biến hơn. Có 1,2 triệu gia đình cha mẹ đơn thân vào năm 2011, theo một cuộc khảo sát của chính phủ. Phụ nữ ở Nhật Bản có xu hướng gặp khó khăn về kinh tế sau khi ly hôn. Đó là bởi vì theo truyền thống ở Nhật Bản, nam giới đi làm và phụ nữ ở nhà chăm sóc con cái. Theo Kingston, khoảng 62% phụ nữ từ bỏ lực lượng lao động khi họ có con đầu lòng.

Khi các cặp vợ chồng ly hôn, phụ nữ thường đã không phải lao động trong một thời gian dài. Nhiều thể chế khuyến khích sự sắp xếp này: các tập đoàn Nhật Bản thường thưởng cho những người chồng có vợ ở nhà, và hệ thống thuế Nhật Bản trừng phạt những cặp vợ chồng có 2 khoản thu nhập. Khi phụ nữ cố gắng quay trở lại lực lượng lao động, họ thường chỉ có thể tìm được công việc bán thời gian được trả lương thấp, kể cả nếu có được thuê. 

Những biện pháp của Nhật chưa thực sự hiệu quả

Để hỗ trợ kết hôn và sinh con ở thanh niên, Chính phủ Nhật Bản đã triển khai chương trình trợ cấp khu vực vào năm 2018 nhằm tăng tỷ lệ sinh. Những cặp đôi dưới 34 tuổi trong ngày cưới có thể nhận được sự hỗ trợ về tài chính cho cuộc sống hôn nhân và cuộc sống mới. Một cặp vợ chồng có thu nhập tổng cộng hàng năm dưới 3,4 triệu yên (562 triệu đồng) (sau thuế) có thể nhận được khoản trợ cấp lên tới 300.000 yên (khoảng 50 triệu đồng) để mua hoặc thuê nhà và chi phí di chuyển phát sinh. Ngay cả những người đang tái hôn cũng đủ điều kiện để nộp đơn miễn là họ chưa nhận được trợ cấp trước đó.

Tuy nhiên, hệ thống phúc lợi hỗ trợ hôn nhân và cuộc sống mới vẫn chưa có trên toàn Nhật Bản. Cho đến giữa năm 2020, hệ thống mới chỉ được triển khai tại 257 trong số 1.724 thành phố ở Nhật Bản. Thời gian nghỉ thai sản có hưởng lương của Nhật Bản là 98 ngày, bao gồm 6 tuần trước và 8 tuần sau khi sinh con. Nếu công ty của người mẹ không trả lương cho kỳ nghỉ thai sản, họ có thể xin trợ cấp từ chính phủ và nhận khoảng 2/3 tiền lương của mình. Nếu công ty trả một phần, nhưng ít hơn số tiền yêu cầu, chính phủ sẽ bù đắp cho khoản thiếu hụt.

So sánh với một quốc gia phát triển khác như Đan Mạch, tổng cộng, các bậc cha mẹ ở Đan Mạch được nghỉ 52 tuần có lương. Nguyên tắc chung là người mẹ có quyền được nghỉ phép 4 tuần trực tiếp trước ngày sinh dự định và sau đó được nghỉ thêm 14 tuần sau khi sinh. Người cha được nghỉ phép 2 tuần trong thời gian 14 tuần đầu sau khi sinh con. Sau đó 32 tuần tiếp theo là thời điểm mà người mẹ và người cha có thể tự do chia sẻ thời gian nghỉ phép giữa họ. Họ có thể chọn nghỉ phép cùng lúc hoặc theo chu kỳ lần lượt.

Việc chính sách nhập cư của Nhật có nhiều rào cản cũng không giúp ích được gì cho tỉ lệ sinh. Theo số liệu của OECD vào năm 2018, Nhật Bản tiếp nhận gần 520.000 người nhập cư mỗi năm, đứng thứ 4 trong danh sách. Tuy nhiên, định nghĩa "người nhập cư" ở Nhật đa phần nhắc đến lao động nước ngoài tạm trú, và có rất nhiều quy định nghiêm ngặt cho việc cư trú dài hạn, càng gây khó khăn cho tỉ lệ sinh thấp và già hóa dân số tại quốc gia này.

Nguyễn Phương Liên

Cùng chuyên mục

Huyện Văn Bàn (Lào Cai) nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới

Huyện Văn Bàn hiện có 29,141 trẻ em dưới 16 tuổi. Theo thống kê của UBND huyện, năm 2022 có 6 trẻ em bị xâm hại,...

Mù Căng Chải, Yên Bái: Tỷ lệ người trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai ngày càng gia tăng

Mù Cang Chải là huyện vùng cao khó khăn của tỉnh Yên Bái, nhận thức của đa số người dân về công tác dân số -...

Hậu Giang vận động thanh niên kết hôn trước 30 tuổi

Sáng 23/11, Tỉnh đoàn phối hợp với Sở Y tế Hậu Giang tổ chức thành công Tọa đàm về giải pháp vận động...

Lâm Đồng tổ chức lễ phát động Tháng hành động vì bình đẳng giới

Ngày 18/11, tại TP Đà Lạt, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với UBND TP Đà Lạt tổ chức Lễ phát...