Không phân biệt giới, không lựa chọn giới tính thai nhi

Thứ Năm, 11/10/2018 03:56 PM (GMT+7)

Đây là chủ đề của ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) năm nay vừa được Bộ Y tế, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Liên minh châu Âu tại Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức lễ kỷ niệm hưởng ứng tại TP Thanh Hóa.

Đây là chủ đề của ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) năm nay vừa được Bộ Y tế, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Liên minh châu Âu tại Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức lễ kỷ niệm hưởng ứng tại TP Thanh Hóa. Hiện nay, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) đang là một trong những thách thức to lớn của công tác dân số. Nó có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng cả nông thôn, thành thị và tất cả các vùng miền.

Vấn đề cấp bách, quan trọng

Ở Việt Nam, từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999, tỷ số GTKS là 107 bé trai/100 bé gái, 10 năm sau tỷ số này là 110,5 (năm 2009) và tăng lên 113,8 (năm 2013). Cho đến nay, tỷ số GTKS vẫn dao động xung quanh ngưỡng 112,2 bé trai/100 bé gái. Cả nước đã có 55/63 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108/100.

Tình trạng MCBGTKS đang diễn ra khá nghiêm trọng, không chỉ ở thành thị mà cả khu vực nông thôn. MCBGTKS ở nước ta có nguồn gốc sâu xa là tình trạng bất bình đẳng giới, quan niệm cũ "trọng nam, khinh nữ" tồn tại và chi phối nếp nghĩ, nếp sống của người Việt cả nghìn năm qua. Tư tưởng lạc hậu này ảnh hưởng nghiêm trọng xã hội và chống lại vấn đề bình đẳng giới.

Các quan niệm xã hội đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên, con trai giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong dòng họ... Theo phong tục truyền thống ở nhiều địa phương, chỉ có con trai mới được kế thừa tài sản của cha mẹ, vị thế của người phụ nữ không được coi trọng... Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.

Hiện nay, sự lạm dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp khả năng nhận biết giới tính sớm của thai nhi, là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng lựa chọn giới tính trước sinh luôn tiềm ẩn. Bên cạnh đó, dù có quy định của pháp luật nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi, nhưng việc thực hiện vẫn chưa nghiêm và triệt để...

Nguy cơ MCBGTKS đã được cảnh báo, nhưng thực tế, chúng ta chưa có các biện pháp để giải quyết thỏa đáng vấn đề này. Đáng nói là 50% số tỉnh, thành phố trong cả nước có tỷ số GTKS năm sau cao hơn năm trước. Xu hướng này diễn ra không giống nhau tại các vùng trên cả nước. Vì vậy, giải quyết tình trạng MCBGTKS là vấn đề cấp bách, quan trọng, cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn dân.

Cần sự vào cuộc của toàn xã hội

MCBGTKS sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu t

nguong-mo-man-day-con-sieu-dinh-cua-bo-nguoi-ta_20151228151526890

rúc dân số Việt Nam trong tương lai. Hậu quả, nam giới sẽ bị dư thừa so với nữ giới trong cùng một thế hệ.

Nếu không có những can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050 Việt Nam sẽ thiếu từ 2,3 - 4,3 triệu phụ nữ. Họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời; sẽ diễn ra tình trạng trì hoãn hôn nhân trọng nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân. Việc thiếu hụt phụ nữ sẽ tạo ra những hậu quả không nhỏ về mặt xã hội và nhân khẩu học như: Gia tăng áp lực buộc các em gái phải kết hôn sớm, gia tăng nạn buôn bán phụ nữ và các hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Trẻ em gái gặp các nguy cơ phải kết hôn sớm. Di cư trong nước và quốc tế nhằm mục đích kết hôn cũng có thể gia tăng, dẫn đến bất ổn xã hội.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Võ Thành Đông - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS - KHHGĐ (Bộ Y tế) nhấn mạnh, nhận thức được hệ lụy của tình trạng MCBGTKS, nước ta đã có đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm chủ động kiểm soát tình trạng MCBGTKS.Thiết thực hưởng ứng Ngày Quốc tế trẻ em gái, Bộ Y tế mong nhận được sự quan tâm hỗ trợ, vào cuộc tích cực của các cấp, ngành, các tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân, nhằm đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới để can thiệp một cách có hiệu quả, góp phần kiểm soát và giảm thiểu tình trạng MCBGTKS trong thời gian tới.

Đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc thực thi nghiêm minh pháp luật về giải quyết tình trạng MCBGTKS; nghiêm cấm các hành vi hướng dẫn, tư vấn, cung cấp dịch vụ lựa chọn, xác định giới tính trước khi sinh trong các cơ sở y tế, tại cộng đồng và trong toàn xã hội.Không phân biệt giới, không lựa chọn giới tính thai nhiĐây là chủ đề của ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) năm nay vừa được Bộ Y tế, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Liên minh châu Âu tại Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức lễ kỷ niệm hưởng ứng tại TP Thanh Hóa. Hiện nay, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) đang là một trong những thách thức to lớn của công tác dân số. Nó có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng cả nông thôn, thành thị và tất cả các vùng miền.Vấn đề cấp bách, quan trọng

Ở Việt Nam, từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999, tỷ số GTKS là 107 bé trai/100 bé gái, 10 năm sau tỷ số này là 110,5 (năm 2009) và tăng lên 113,8 (năm 2013). Cho đến nay, tỷ số GTKS vẫn dao động xung quanh ngưỡng 112,2 bé trai/100 bé gái. Cả nước đã có 55/63 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108/100.

Tình trạng MCBGTKS đang diễn ra khá nghiêm trọng, không chỉ ở thành thị mà cả khu vực nông thôn. MCBGTKS ở nước ta có nguồn gốc sâu xa là tình trạng bất bình đẳng giới, quan niệm cũ "trọng nam, khinh nữ" tồn tại và chi phối nếp nghĩ, nếp sống của người Việt cả nghìn năm qua. Tư tưởng lạc hậu này ảnh hưởng nghiêm trọng xã hội và chống lại vấn đề bình đẳng giới.

Các quan niệm xã hội đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên, con trai giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong dòng họ... Theo phong tục truyền thống ở nhiều địa phương, chỉ có con trai mới được kế thừa tài sản của cha mẹ, vị thế của người phụ nữ không được coi trọng... Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.

Hiện nay, sự lạm dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp khả năng nhận biết giới tính sớm của thai nhi, là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng lựa chọn giới tính trước sinh luôn tiềm ẩn. Bên cạnh đó, dù có quy định của pháp luật nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi, nhưng việc thực hiện vẫn chưa nghiêm và triệt để...

Nguy cơ MCBGTKS đã được cảnh báo, nhưng thực tế, chúng ta chưa có các biện pháp để giải quyết thỏa đáng vấn đề này. Đáng nói là 50% số tỉnh, thành phố trong cả nước có tỷ số GTKS năm sau cao hơn năm trước. Xu hướng này diễn ra không giống nhau tại các vùng trên cả nước. Vì vậy, giải quyết tình trạng MCBGTKS là vấn đề cấp bách, quan trọng, cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn dân.

Cần sự vào cuộc của toàn xã hội

MCBGTKS sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số Việt Nam trong tương lai. Hậu quả, nam giới sẽ bị dư thừa so với nữ giới trong cùng một thế hệ.

Nếu không có những can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050 Việt Nam sẽ thiếu từ 2,3 - 4,3 triệu phụ nữ. Họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời; sẽ diễn ra tình trạng trì hoãn hôn nhân trọng nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân. Việc thiếu hụt phụ nữ sẽ tạo ra những hậu quả không nhỏ về mặt xã hội và nhân khẩu học như: Gia tăng áp lực buộc các em gái phải kết hôn sớm, gia tăng nạn buôn bán phụ nữ và các hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Trẻ em gái gặp các nguy cơ phải kết hôn sớm. Di cư trong nước và quốc tế nhằm mục đích kết hôn cũng có thể gia tăng, dẫn đến bất ổn xã hội.

tresosinh-1-5dc36

Phát biểu tại buổi lễ, ông Võ Thành Đông - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS - KHHGĐ (Bộ Y tế) nhấn mạnh, nhận thức được hệ lụy của tình trạng MCBGTKS, nước ta đã có đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm chủ động kiểm soát tình trạng MCBGTKS.Thiết thực hưởng ứng Ngày Quốc tế trẻ em gái, Bộ Y tế mong nhận được sự quan tâm hỗ trợ, vào cuộc tích cực của các cấp, ngành, các tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân, nhằm đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới để can thiệp một cách có hiệu quả, góp phần kiểm soát và giảm thiểu tình trạng MCBGTKS trong thời gian tới.

Đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc thực thi nghiêm minh pháp luật về giải quyết tình trạng MCBGTKS; nghiêm cấm các hành vi hướng dẫn, tư vấn, cung cấp dịch vụ lựa chọn, xác định giới tính trước khi sinh trong các cơ sở y tế, tại cộng đồng và trong toàn xã hội.

Phạm Huyền

Cùng chuyên mục

Phóng sự: Vai trò của chính sách hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn trong giải quyết vấn đề mức sinh thấp

Nhờ thành công của chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế với 2,1 con/...

“Bài thuốc” thần kì sinh được con trai!!

Theo báo cáo Tổng quan về bình đẳng giới năm 2021, tỉ số giới tính khi sinh ở mức khá cao, cứ tính 111,5 trẻ năm...

Hạnh phúc của những gia đình “toàn con gái”

Gạt bỏ quan niệm phải sinh con trai để “nối dõi tông đường”, hiện nay, nhiều gia đình sinh con một bề là gái...

Tình trạng dư thừa đàn ông tại Trung Quốc và những hệ lụy

Hệ lụy của thực trạng này đã khiến Trung Quốc mất cân bằng giới tính nghiêm trọng, sự mất cân bằng này...