Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam có những nét đặc thù khác với các nước trong khu vực, đó là ở Việt Nam hiện tượng này cao ngay từ lần sinh đầu tiên, chứng tỏ các bà mẹ đã chọn lọc giới tính ngay từ lần sinh đầu. Ðặc biệt, tình trạng mất cân bằng TSGTKS diễn ra nghiêm trọng nhất ở nhóm kinh tế khá giả. Trong khi ở nhóm nghèo nhất (chiếm khoảng 20% dân số) TSGTKS ở mức bình thường là 105,2 thì ở nhóm trung bình, nhóm giàu và nhóm giàu nhất tình trạng mất cân bằng TSGTKS lại rất nặng nề. Cụ thể, TSGTKS ở nhóm giàu là 111,7 và ở nhóm giàu nhất là 112,9.
TSGTKS thấp nhất ở nhóm phụ nữ không biết chữ (107) và tăng dần theo trình độ học vấn, lên đến 114 ở nhóm các bà mẹ có trình độ cao đẳng trở lên. Những phụ nữ có trình độ học vấn cao biết chủ động sử dụng các biện pháp tránh thai và điều chỉnh số con mong muốn; những phụ nữ này thường lại có điều kiện kinh tế tốt hơn để có thể chi trả dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh và họ thỏa mãn được cả hai mục tiêu: quy mô gia đình nhỏ và có con trai.
Có ba nhóm nguyên nhân cốt lõi của việc gia tăng TSGTKS, đó là tâm lý ưa thích con trai trong xã hội; ảnh hưởng từ giảm sinh và tác động của các yếu tố kinh tế, phúc lợi xã hội; Sự phát triển của các dịch vụ y tế hiện đại, các điều kiện chẩn đoán giới tính trước sinh và phá thai chọn lọc giới tính. Tâm lý ưa thích con trai dẫn đến nhu cầu lựa chọn giới tính trước sinh là hiện tượng phức tạp, tổng hợp các quan niệm truyền thống kế thừa từ quá khứ và các giá trị xã hội hiện đại phát sinh từ những chuyển đổi gần đây trong xã hội.
Việt Nam cũng như một số nước châu Á, bị ảnh hưởng lớn bởi tư tưởng Nho giáo truyền thống với quan niệm con trai nối dõi tông đường,... đã làm cho tâm lý ưa thích con trai trở nên mãnh liệt. Quan niệm "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" từ lâu đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.
Áp lực giảm sinh với khuyến cáo mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con cũng là nguyên nhân gián tiếp tác động đến thực trạng này. Ðể sinh ít con mà vẫn đảm bảo có con trai như mong muốn, các cặp vợ chồng không thể áp dụng "quy luật dừng" là sinh đến khi nào có con trai mới thôi, nên họ đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh nhằm đáp ứng được cả hai mục tiêu nói trên.
Bên cạnh các chính sách ưu tiên đối với nữ giới chưa thật thỏa đáng thì chế độ an sinh xã hội hiện nay chưa bảo đảm, 70% dân số nước ta còn sống ở nông thôn, hầu hết không có lương hưu khi về già, rất cần sự chăm sóc, phụng dưỡng của con cái mà theo quan niệm của xã hội hiện nay, trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai, vì thế họ sẽ cảm thấy bất an khi chưa có con trai, bởi con trai là "giá trị bảo hiểm cho tuổi già".
Cùng chuyên mục
Nhờ thành công của chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế với 2,1 con/...
Theo báo cáo Tổng quan về bình đẳng giới năm 2021, tỉ số giới tính khi sinh ở mức khá cao, cứ tính 111,5 trẻ năm...
Gạt bỏ quan niệm phải sinh con trai để “nối dõi tông đường”, hiện nay, nhiều gia đình sinh con một bề là gái...
Hệ lụy của thực trạng này đã khiến Trung Quốc mất cân bằng giới tính nghiêm trọng, sự mất cân bằng này...